Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012

Truyện kiếm hiệp Việt: Tiếng đàn đêm xuân Kỷ Dậu


TIẾNG ĐÀN ĐÊM XUÂN KỶ DẬU 4506 / 28.1.2012

Truyện ngắn của HOÀNG TÙNG & lời bình của Lê Hoài Lương

Một cung gió thảm mưa sầu

Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay

Truyện Kiều – Nguyễn Du

Đêm mồng ba, rạng sáng mồng bốn tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), Quang Trung Hoàng đế dẫn đại quân tiến đánh vào đồn Ngọc Hồi, công phá Thăng Long, đánh đuổi giặc Mãn Thanh.

Tương truyền rằng đêm hôm đó, giữa vùng binh lửa, quân Tây Sơn và quân Thanh đều nghe thấy tiếng đàn lạ lùng từ đâu vẳng tới.

Đêm hôm đó, một đại thi hào đất Việt đã nghe thấy tiếng đàn. Sau này, ông tả lại trong tác phẩm bất hủ của mình: “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.”…

Có người nói, đó là tiếng đàn của thần tiên.

Có người nói, đó là tiếng đàn của ma quỷ.

Sự thực không phải như vậy.

Đây là câu chuyện về tiếng đàn kỳ lạ đêm xuân năm Kỷ Dậu…



1. Chiếc xe ngựa lầm lũi trong ngày đầu xuân lần lần rời khỏi thành Thăng Long.

Chưa bao giờ kinh đô Đại Việt lại đón Tết trong một khung cảnh tiêu điều đến vậy.

Chỉ trong vòng mười năm mà Thăng Long đã chịu biết bao nhiêu là biến động.

Tây Sơn tiến quân ra Bắc. Bằng Quận Công Nguyễn Hữu Chỉnh không chống lại được, bị quân Tây Sơn bắt giết. Vua Lê Chiêu Thống sợ hãi trốn sang Trung Quốc, cầu viện nhà Thanh mong chiếm lại ngai vàng.

Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị cùng hai mươi chín vạn quân Thanh tiến vào Đại Việt. Các tướng Tây Sơn không chống cự, rút lui khỏi Thăng Long, đóng binh cố thủ ở Tam Điệp.

Tôn Sĩ Nghị dẫn quân thẳng tiến một mạch vào kinh thành, không gặp chút chống cự đáng kể nào. Họ Tôn hung hăng tự đắc, cho rằng đám giặc Tây Sơn khiếp sợ Thiên triều. Tôn Sĩ Nghị cho đóng quân tại Thăng Long. Các tướng thoải mái ăn chơi hưởng lạc. Quân sĩ thả sức cướp bóc người dân.

Vua Lê Chiêu Thống e sợ sau này chúa Trịnh sẽ lại trở thành quyền thần mới sai đốt phá phủ Chúa. Phủ điện cháy rừng rực mấy tuần mới hết. Người dân ai nấy đều tiếc cho một công trình kỳ vĩ của đất Thăng Long giờ chỉ còn là đống tro tàn.

Hàng ngày, vua Lê Chiêu Thống đến trước doanh trại của Tôn Sĩ Nghị, cầu mong họ Tôn đem quân tiến đánh quân Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị vốn khinh địch, trấn an nhà vua để quân sĩ nghỉ Tết xong xuôi rồi sẽ một trận sấm sét dẹp tan ba anh em nhà họ Nguyễn. Mấy lần sau, vua Lê Chiêu Thống cố xin gặp mong giục họ Tôn tiến quân. Tôn Sĩ Nghị cáo bận không tiếp. Vua Lê cùng đám tùy tá lủi thủi ra về. Người dân nhìn cảnh tượng đó mà ngao ngán.

Từ khi có đế có vương, chưa bao giờ Đại Việt lại có một vị vua hèn nhụt như thế.

Quân Thanh dựa thế Tôn Sĩ Nghị, ngày càng hống hách ngạo ngược.

Vua Lê Chiêu Thống biết nhưng e sợ Thiên triều, không dám ho he.

Riêng với những phe cánh trong nước, nhà vua thẳng tay trừng trị. Những kẻ theo chúa Trịnh, theo Tây Sơn đều bị lùng bắt gắt gao.

Không ngày nào không có người rơi đầu giữa chợ.

Không lúc nào không thấy tiếng khóc than oán thán.

Lòng người tao tác. Phố xá im ắng.

Chưa bao giờ Thăng Long lại đón Tết trong một khung cảnh tiêu điều đến vậy.



2. Chiếc xe ngựa lọc cọc đi qua phủ chúa. Phủ đệ giờ đổ nát tan hoang. Nền cũ lâu đài nhộm vàng trong ánh tịch dương hoang liêu cô quạnh.

Ông lão đánh xe quay lại nói với nàng kỹ nữ: “Ngày xưa hẳn cô đã phải vào trong phủ chúa nhiều lần rồi nhỉ?”

Kỹ nữ ôm cây Nguyễn cầm vào lòng, lặng lẽ gật đầu.

Nàng vốn từng là đệ nhất kỹ nữ chốn kinh thành. Trường Xuân Viện có nàng như có một bảo vật. Có nàng, chưa lúc nào Trường Xuân Viện ngừng tiếng sênh tiếng phách. Có nàng, chưa lúc nào Trường Xuân Viện không nhộn nhịp tao nhân mặc khách lại qua. Ai cũng muốn đến nghe tiếng đàn diễm tuyệt của nàng.

Kỹ nữ vốn sinh ra trong kỹ viện. Nàng học nghệ từ nhỏ, từng luyện đàn đến mức máu chảy mười đầu ngón tay. Đến khi thành tài, tiếng đàn trở thành tiếng lòng. Khi vui, tiếng đàn như có tiếng chim hót. Khi buồn, tiếng đàn ngân như tiếng khóc.

Thủa đó, mỗi khi phủ chúa mở tiệc là kỹ nữ lại được mời vào trong phủ đánh đàn mua vui. Phủ chúa uy nga mỹ lệ ngay bên hồ Tả Vọng. Mỗi khi yến tiệc, đèn nến lung linh tưởng như chốn Bồng Lai tiên cảnh. Đồ ăn thức uống bạt ngàn. Bồ đào mỹ tửu ngập tràn trong tiếng đàn sênh sáo phách.

Chốn hoa lệ xưa, giờ đống đổ nát hoang tàn trong ráng chiều vàng vọt.

Trường Xuân Viện giờ cũng đã bị tàn phá tan hoang.

Kỹ nữ không còn nơi nương náu. Nàng không biết đi đâu. Chỉ muốn rời xa chốn kinh thành u ám.



3. Viên gia nô ngồi im trong một góc xe, kín đáo liếc nhìn kỹ nữ. Y hóa trang ăn mặc như một người nông dân. Kỹ nữ có thể không nhớ y nhưng y biết nàng khá rõ. Gia nô từng là cận vệ thân tín của chúa Trịnh. Ngày xưa mỗi lần kỹ nữ vào phủ chúa đánh đàn, y lại say mê trong tiếng đàn kỳ tuyệt của nàng. Y từng ao ước được một lần được người đẹp đàn riêng cho mình nghe. Nhưng phận tôi đòi, y biết đó chỉ là một giấc mơ xa vời.

Viên gia nô không ngờ ngày hôm nay y lại được ngồi bên cạnh người con gái mình hằng ngưỡng mộ.

Mọi thứ đều đã đổi thay.

Nền cũ lâu đài tan hoang đó chính là ngôi nhà xưa y từng nương náu.

Chốn xưa còn đó, nhưng giờ chẳng ai biết chúa Trịnh lưu lạc phương nào.

Chúa Trịnh Bồng bị quân Tây Sơn đuổi khỏi thành Thăng Long, trốn về vùng Kinh Bắc. Sau khi quân Tây Sơn rút đi, chúa Trịnh Bồng cùng đám người thân tín quay lại kinh thành, muốn khôi phục ngôi chúa. Vua Lê Chiêu Thống không đồng ý, cho mời tướng Nguyễn Hữu Chỉnh về đuổi chúa Trịnh. Chúa Trịnh Bồng thua cuộc chạy khỏi Thăng Long, lưu lạc chốn dân gian, không biết đi về đâu. Nghe nói ngài bỏ lên vùng cao sống đời ẩn dật. Lại có tin đồn ngài cắt tóc đi tu. Có người thì bảo ngài đã chết trong đám loạn quân.

Viên gia nô đã cất công đi tìm tung tích của chúa Trịnh Bồng nhưng không thấy đâu. Trở về kinh thành Thăng Long, y bị cả quân Tây Sơn và lính nhà Lê truy lùng. Y phải cải trang thành một người nông dân, mong sớm trốn khỏi chốn kinh thành.

Nhưng khi đi qua chốn cũ, nhớ lại lầu các huy hoàng thủa nào, viên gia nô không khỏi rưng rưng nước mắt.



4. Chiếc xe đi dần xa khỏi phế tích phủ chúa. Ánh tịch dương như nhuộm vàng cả kinh thành. Chàng nho sinh nhìn cảnh hoang tàn, thở dài giọng cảm khái: “Chúa Trịnh có thể một thời là quyền thần, nhưng nhà vua xử sự thế này chẳng phải quá hẹp hòi hay sao?”

Ông lão đánh xe như bị điện giật, quay lại nhìn chàng nho sinh dài giọng: “Cậu ăn nói liều mạng nhỉ? Có định giữ cái đầu trên cổ không đấy?”

Nho sinh cười! Chàng đích thực là một kẻ liều mạng.

Chàng đã từng liều mạng với thần linh.

Hơn mười năm trước chàng lên kinh ứng thí. Đám nho sinh rủ nhau ngủ lại ở đền Trấn Vũ cầu báo mộng công danh. Đêm hôm đó, chàng mơ thấy thần nhân hiện về báo đến năm ba mươi tuổi chàng sẽ đỗ Tiến sĩ, bốn mươi tuổi sẽ làm đến chức Thượng thư. Sáng dậy, chàng kể lại giấc mơ cho bạn bè nghe. Bạn bè ai nấy đều chúc mừng vì tương lai chàng thật sán lạn, sau này trở thành trọng thần của triều đình. Riêng chàng suy nghĩ. Bây giờ mới tuổi đôi mươi. Chờ đến tận mười năm nữa mới đỗ đạt làm quan, e rằng chẳng còn bao nhiêu thời gian để mà trổ tài kinh bang tế thế. Nghĩ vậy, chàng liền viết lên tường: “Trí chứa giáp binh. Bụng đầy kinh sử. Nhị thập Tiến sĩ. Tam thập Thượng thư?” Đám bạn bè đều chê chàng kiêu ngạo. Nhưng quả nhiên năm đó chàng thi đỗ Tiến sĩ khi mới tròn hai mươi tuổi.

Liều với thần linh, chàng đã thắng!

Chàng đã từng liều với chúa Trịnh.

Bạn bè cùng lứa đỗ Tiến sĩ đều biết triều đình tuy có vua họ Lê nhưng thực quyền đều nằm trong tay chúa Trịnh. Sau buổi lễ xướng danh gặp mặt nhà vua, ai nấy đều tìm đến phủ chúa ra mắt. Điều này đã thành lệ từ hơn trăm năm. Riêng chàng nho sinh không chịu. Chàng nói danh chính ngôn thuận triều đình là của vua Lê, sao bậc nho sĩ lại bỏ qua điều quốc sỉ mà khúm núm trước chúa Trịnh? Chuyện đến tai chúa Trịnh. Chúa ghét lắm, chỉ cho chàng làm một chức thư lại nhỏ trong cung. Thế rồi chúa Trịnh bị diệt. Vua Lê nhớ chuyện xưa, thương chàng trung hậu, cất nhắc chàng lên chức Thượng thư. Năm đó chàng vừa tròn tuổi tam thập, vinh quy áo gấm về làng, ai nấy đều khấp khởi vui mừng.

Liều với chúa Trịnh, chàng đã thắng!

Lần này, chàng liều với quân Thanh.

Quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm dẫn ra Bắc dẹp loạn Nguyễn Hữu Chỉnh vào chiếm Thăng Long. Vũ Văn Nhậm vốn bản tính hiếu thắng, lại tỏ vẻ hung hăng. Vua Lê Chiêu Thống sợ quân Tây Sơn cướp ngôi, chạy sang cầu viện Trung Hoa. Chàng nho sinh can ngăn nhà vua hết lẽ. Chàng muốn nhà vua gặp trực tiếp Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, kể tội Vũ Văn Nhậm mà đòi lại ngôi báu. Vua Lê không nghe, quyết cầu viện nhà Thanh. Chàng nho sinh đi theo nhà vua lưu lạc sang tận Trung Quốc.

Nay ngôi báu đã trở về với nhà Lê. Các quan lại đi theo nhà vua qua bên kia biên giới cầu viện đều được phong thưởng hậu hĩnh. Buổi chầu hôm đó, viên tướng nhà Thanh là Sầm Nghi Đống ngạo mạn, coi thường bá quan, ăn nói phạm thượng. Chàng nho sinh đứng ra mắng mỏ họ Sầm vì tội vô lễ khiến y không biết đối đáp lại ra sao. Sầm Nghi Đống tức lắm, thưa chuyện lại với Tôn Sĩ Nghị. Họ Tôn sai bắt chàng nho sinh giam ngục. Vua Lê không dám can thiệp. Sau đó, chàng bị nọc đánh 50 gậy, cắt bỏ mọi chức tước, đuổi về quê.

Liều với quân Thanh, chàng đã thua!

Ngày nào về quê võng giá nghênh ngang. Giờ đây chàng rời khỏi kinh thành trên một chiếc xe ngựa lọc cọc.

Chàng nho sinh không tiếc chức quan. Chàng chỉ tiếc rồi đây không khéo, giang sơn gấm vóc Đại Việt có khi lại sẽ rơi vào tay phương Bắc.



5. Chiếc xe ngựa lầm lũi đi về phía Nam thành Thăng Long. Trời đã dần về tối. Sương mù rơi bảng lảng. Đâu đó tiếng chim lợn kêu nghe não nùng.

Đến quán dịch đồn Ngọc Hồi, gã cai binh bắt dừng xe lại. Đóng quân giữ đồn Ngọc Hồi là tướng Phó tướng Hứa Thế Hanh. Đồn Ngọc Hồi là cửa ngõ phía Nam, là yết hầu dẫn vào Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị coi đây là cửa khẩu trọng yếu. Quân Thanh canh gác quanh đồn dày đặc, tầng tầng lớp lớp. Nhưng giờ đang tiết xuân, lại vừa mới qua ngày Tết Nguyên Đán. Xa quê. Nhớ nhà. Đám lính nhà Thanh uống rượu say túy lúy, hò hát tưng bừng, chen lẫn đâu đó là cả tiếng khóc tha hương...

Ông lão đánh xe xuống ngựa đưa chút tiền đút lót cho gã cai binh. Hắn nhìn món tiền rồi liếc lên xe. Trên xe có ba người, một ăn mặc như nông dân, một vóc dáng nho sinh và một cô gái nhan sắc xinh đẹp. Hắn xốc lại chiếc áo lính sắc phục nhà Thanh, cầm món tiền của ông lão đánh xe đút thẳng vào túi, mắt hau háu nhìn rồi vươn tay ra vuốt vuốt má cô gái. Kỹ nữ lập tức gạt tay hắn ra. Hắn cau mày: “Cô em này dễ là nội gián của đám quân Tây Sơn lắm”.

Ông lão đánh xe vội xun xoe: “Đại quan, cô gái này không phải là nội gián của quân Tây Sơn đâu. Cô ta là kỹ nữ nổi tiếng ở đất Thăng Long, ai ai cũng biết”.

Gã cai binh mắt hấp háy cười lớn, đưa tay xoa xoa cằm: “Ha ha, kỹ nữ à. Hứa tướng quân chắc hẳn sẽ phải tra hỏi cô em kỹ càng lắm đấy! Cô em thân gái một mình đi cùng hai gã đàn ông thế này, không xảy ra chuyện gian dâm mới là điều lạ!”

Chàng nho sinh thấy hành vi sàm sỡ của gã cai binh, tức khí mắng: “Kỹ nữ thì đã sao? Làm kỹ nữ còn hơn làm giặc cướp. Chúng bay là lính hay là giặc cướp? Chúng bay định bảo vệ người dân hay định hiếp đáp dân lành?”

Nàng kỹ nữ ngạc nhiên. Từ trước đến nay, chưa ai từng bênh vực nàng. Đám đàn ông xun xoe quanh nàng cốt chỉ để quan hệ thân xác. Đám đàn bà coi nàng như vật dơ bẩn. Chủ kỹ viện coi nàng như con chó, con mèo trong nhà. Vậy mà giờ đây lại có một người không quen biết đứng ra nói đỡ cho nàng.

Gã cai binh quắc mắt nhìn chàng nho sinh: “Thằng này chính là nội gián của quân Tây Sơn đây. Bọn bay đâu, gông cổ nó lại cho ta!”

Chàng nho sinh bị đám lính kéo ra khỏi xe lôi đi xềnh xệnh. Chàng tức khí chửi mắng đám lính không ngớt. Mấy tên lính ngoặt cánh khỷu chàng nho sinh lại dẫn đến trước mặt gã cai binh. Hắn giơ nắm đấm to như cái búa giáng thẳng vào mặt nho sinh. Chàng trai không chịu nổi cú đấm thôi sơn, gãy mấy cái răng, ộc máu ra khỏi miệng ngất lịm đi.

Gã cai binh câng câng nét mặt nhìn xung quanh. Đám quân sĩ hò reo ủng hộ. Viên gia nô trên xe và ông lão đánh xe lặng lẽ cúi đầu. Gã cai binh khoát tay bảo đám lính: “Đem thằng này vào giam giục, chờ ngày tiến quân đánh Tây Sơn, chém đầu nó tế cờ!”

Kỹ nữ vội quỳ xuống trước mặt gã cai binh: “Xin tướng quân tha tội cho chàng ta. Chàng ta chỉ là một nho sinh gàn dở, đâu cần tướng quân phải xuống tay sấm sét. Xin ngài nhón tay làm phúc!”

Gã cai binh cười khành khạch vuốt vuốt đôi má của cô kỹ nữ. Nàng cúi đầu nhịn nhục làm thinh không chút phản ứng. Hắn cười cợt, giả lả: “Mỹ nhân đã xuống nước cầu xin, lẽ nào ta lại từ chối”.

Kỹ nữ vội dập đầu tạ ơn. Gã cai binh kéo nàng lại gần rồi thì thầm, miệng hắn tỏa ra mùi xú uế thối hoắc: “Tướng quân Hứa Thế Hanh dẫn đại quân Thiên triều vào đây, ban ơn mưa móc cho người dân Đại Việt. Rồi ngài sẽ sớm muộn dẹp tan bọn thảo khấu Tây Sơn. Ta giới thiệu nàng cho tướng quân, nàng phải phục vụ ngài cho tốt. Tướng quân vừa lòng với nàng, ắt sau này sẽ nhớ đến công lao của ta”.

Nàng kỹ nữ chau mày tỏ vẻ không đồng ý. Gã cai binh thấy vậy liền gằn giọng, chỉ vào chàng nho sinh: “Hãy nhớ rằng mạng sống của gã toi cơm này hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ của nàng đấy! Nghe chửa!”

Nàng kỹ nữ im lặng cúi đầu, với tay lấy chiếc Nguyễn cầm. Gã cai binh cầm chiếc đàn ném ngược trở lại xe ngựa, cười khả ố: “Hứa tướng quân không thích nghe đàn! Cầm đàn vào làm gì”.

Kỹ nữ nhỏ bé lủi thủi đi cùng gã cai binh vào trướng soái. Ông lão đánh xe vội dìu chàng nho sinh lên xe, luôn miệng kêu khổ: “Đúng là cái loại người gàn gàn dở dở, đến chết cũng không đổi được bản chất”.

Rồi ông lão quay sang nhìn gia nô, giọng phân trần: “Cậu ta là đồng hương với tôi. Ngày nào về làng còn võng giá nghênh ngang. Thế mà cái miệng làm khổ cái thân. Từ quan to thành phó thường dân. Rồi giờ thì từ phó thường dân thành kẻ tàn phế. Thời buổi này mà ăn nói chẳng kiêng nể ai cả. Không biết giữ miệng rồi có ngày mất mạng chứ chẳng chơi!”

Viên gia nô không nói nửa câu. Y nhìn chàng nho sinh. Khuôn mặt anh tuấn của chàng giờ thâm tím. Mấy chiếc răng đã bị gãy rời khỏi hàm. Chàng nho sinh thở yếu ớt.

Bên trong trướng vang ra tiếng cười hô hố của gã tướng quân họ Hứa. Sau đó là tiếng vải xé roàng roạc. Rồi tiếng cô gái kêu thét đau đớn. Cả đám lính nhà Thanh quây quanh trướng soái, lắng nghe tiếng động cuồng loạn của cuộc truy hoan, kẻ thì hí hố bàn tán, kẻ thì cười ha ha khoái chí.

Riêng trên xe, ba người đàn ông Đại Việt ngồi im không nói một lời. Tiếng cô gái kêu khóc yếu ớt. Gã tướng Mãn Thanh rú lên động cỡn như chó sói. Mỗi lần có tiếng động là mỗi lần ba người cúi đầu xuống như bị ai tát vào mặt nổ đom đóm mắt.

Chàng nho sinh đau đớn gượng dậy thét lên bi phẫn: “Nhục!”

Ông lão đánh xe vội bịt mồng chàng nho sinh.

Trời dần rạng sáng.

Cuộc truy hoan đã chấm dứt.

Cô kỹ nữ quần áo xộc xệch từ trướng soái chạy thấp thoải ra xe ngựa. Từng hạt châu rơi lã chã. Chàng nho sinh và viên gia nô nghiêng người ra cho cô gái ngồi lên xe. Ai nấy im lặng. Chiếc xe lọc cọc chuyển bánh. Con đường heo hút dẫn đến ngọn đồi cao.

Bỗng gã cai binh cùng mấy tên lính đuổi theo, chặn xe lại. Hắn cười nham nhở: “Sao nàng lại bỏ đi vội vã thế. Mọi chuyện đã xong đâu?”

Kỹ nữ run rẩy trong giá rét sương đêm, tủi nhục cúi đầu: “Tôi đã chiều Hứa tướng quân theo lệnh của ngài rồi. Ngài không cho tôi đi, còn muốn gì nữa?”

Gã cai binh nuốt nước miếng ừng ực: “Nàng chiều Hứa tướng quân rồi, giờ đến lượt ta!”

Nói đoạn gã cai binh vươn tay lôi kỹ nữ xuống. Chàng nho sinh tức giận, lấy hết sức tàn kéo tay giữ cô gái lại. Gã cai binh dùng sức giật mạnh. Cả chàng nho sinh và cô gái bị lôi thốc ra khỏi chiếc xe ngựa. Hắn giơ chân đạp chàng nho sinh ngã dúi dụi. Rồi hắn rút kiếm, nhằm thẳng đầu chàng chém mạnh xuống. Cô kỹ nữ thét lên kinh sợ, lăn vội xuống ôm lấy chàng nho sinh cản lưỡi kiếm, nhắm mắt chờ chết.

Bỗng “Choang!”, thanh kiếm của gã cai binh đã bị một viên đá ném trúng. Kỹ nữ mở mắt ra nhìn. Thanh kiếm đã văng khỏi tay tên cai binh rơi xuống đất. Mặt hắn đang nửa đỏ nửa trắng, nửa giận giữ, nửa sợ hãi. Chính là viên gia nô đã ra tay. Viên đá được tung ra như ám khí, sức mạnh có thể đánh bật tung cả kiếm khỏi bàn tay đô vật của tên cai binh, chứng tỏ bản lĩnh của y không phải tầm thường.

Gã cai binh vội lùi lại. Mấy tên lính lập tức bao vây xung quanh. Đao kiếm tua tủa. Viên gia nô nhặt thanh kiếm lên, hoành kiếm ngang ngực, ánh mắt như có lửa cháy rừng rực. Đám lính khiếp hãi đứng bất động.

Gia nô giục ông lão đánh xe cùng cô gái dìu chàng nho sinh lên xe mà trốn đi. Gã cai binh thấy vậy, lập tức quát đám lính vung gươm xông vào. Gia nô vung kiếm chống trả. Ánh kiếm lấp lánh trong đêm xuân như hàng ngàn vì sao bạc rơi lả tả. Đám lính nhà Thanh tuy đông nhưng không thể nào xuyên qua được màn kiếm quang dày đặc kỳ ảo của y.

Ông lão đánh xe giục ngựa chuyển bánh. Gã cai binh thấy vậy vội chạy đuổi theo xe, tóm lấy chân kỹ nữ. Cô gái thét lên sợ hãi.

Bỗng ánh kiếm quang vung lên lóa mắt. Viên gia nô bằng một chiêu kiếm tuyệt kỹ đã ngoặt ngả người chém một nhát bay đầu tên cai binh. Nhưng cũng vì thế mà y sơ hở mặt trước. Đám lính nhà Thanh ồ lên chém mấy nhát vào đùi khiến gia nô quỵ xuống. Y hét lên giục ông lão đánh xe chạy cho nhanh. Xe ngựa lọc cọc chạy xa dần. Gia nô múa kiếm chặn hậu một cách tuyệt vọng. Đám lính Mãn Thanh quây xung quanh đâm chém tơi bời.

Bỗng từ phía đồn Ngọc Hồi có tiếng pháo lệnh nổ vang. Từ đâu bóng quân Tây Sơn như đội đất chui lên. Tiếng hò reo dậy đất. Lửa cháy bừng bừng. Quân Tây Sơn như một làn sóng ào đến tấn công đồn Ngọc Hồi.

Lúc đó là rạng sáng mồng bốn tết Kỷ Dậu…



6. Đám lính Mãn Thanh bỏ lại viên gia nô, vội vã quay lại phía đồn Ngọc Hồi đón đánh quân Tây Sơn. Hai bên lâm trận, khói lửa tơi bời.

Trên ngọn đồi đẫm cỏ hơi sương, viên gia nô đã bị chém trọng thương nằm rõng rượi trên nền nền đất ẩm. Máu của y đọng thành vũng đỏ thẫm bên những ngọn cỏ xanh mơn mởn. Y quay mặt nhìn về phía kinh thành Thăng Long, ánh mắt long lanh.

Chàng nho sinh và cô kỹ nữ vội nhảy khỏi xe đến quỳ bên viên gia nô. Nho sinh lấy bình rót chút rượu vào miệng y, giọng lắp bắp run rẩy: “Xin cảm ơn huynh đã cứu mạng!”

Viên gia nô lúc lắc đầu thở dài. Cô kỹ nữ ôm lấy y, miệng khóc thút thít. Viên gia nô ngửa đầu lên nhìn. Từ đôi mắt trong veo của cô gái là hai giọt lệ long lanh như hai ngôi sao từ trời cao rơi xuống.

Gia nô gắng gượng, giọng đứt quãng: “Cô nương hãy đàn cho tôi nghe một lần trước khi chết!”

Chàng nho sinh cầm lấy cây đàn Nguyễn mang xuống cho nàng kỹ nữ. Nàng cầm lấy cây đàn. Tay nàng run run.

Tiếng đàn run run như tiếng khóc…

Từ giữa vùng chiến địa, quyện giữa những tiếng binh đao đâm chém, tiếng hò hét gào thét, tiếng lửa cháy bừng bừng là tiếng Nguyễn cầm vang lên trong đêm xuân lịch sử.

Chưa bao giờ tiếng đàn của nàng kỹ nữ có thần đến thế!

Từ đồi cao, tiếng đàn mong manh như tiếng chim nhạn lạc bầy nhưng vẫn len lỏi lan tỏa lên cả một vùng đất mênh mông đang rừng rực lửa cháy. Khi thưa như tiếng gió thoảng ngoài, khi mau như tiếng mưa rơi sầm sập.

Đêm hôm đó, cả quân Tây Sơn lẫn quân Thanh ai nấy đều nghe thấy tiếng đàn. Lúc thì tiếng đàn như từ trời cao vẳng xuống, lúc thì như từ dưới đất chui lên. Tiếng đàn khiến người ta khi thì vui sướng lâng lâng, khi thì sởn gai ốc vì cảm thương ai oán.

Đêm hôm đó, kỹ nữ đánh đàn lần cuối cùng. Bản đàn chấm dứt, nàng vứt cây Nguyễn cầm vào đám lửa.

Đêm hôm đó, viên gia nô nghe lần cuối tiếng đàn thần diệu. Mắt y khép lại dần dần. Những đốm lửa cháy trước mắt y như biến thành hàng ngàn ngọn nến cháy lung linh nơi phủ Chúa vàng son hoa lệ…



7. Đã mấy năm rồi thanh bình về lại đất Thăng Long. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi, xưng là Quang Trung Hoàng đế. Ngài đã đem quân đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh, lập nên nhà Tây Sơn. Quang Trung Hoàng đế cho dựng lại Văn Miếu, khuyến khích nông nghiệp, mở mang thông thương, giảm thuế cho người dân. Thành Thăng Long năm nay không còn vẻ tiêu điều nữa. Nhà nhà treo đèn kết hoa, người dân áo quần xúng xính. Vùng ngoại ô Thăng Long, hoa đào nở một màu hồng rực bạt ngàn đẹp đến bàng hoàng.

Trên ngọn đồi gần đồn Ngọc Hồi, một cặp nam nữ cùng một đứa nhỏ đang lặng lẽ cúi đầu bên nấm mộ không tên. Nàng kỹ nữ thổn thức khóc. Chàng nho sinh nhẹ ôm kỹ nữ vào lòng.

Cô bé gái bụ bẫm lẫm chẫm thắp nén hương lên nấm mộ sè sè cỏ mọc xanh rợn. Nén trầm hương thơm ngát. Tiết trời xuân man mác. Cô bé ngước lên nhìn mẹ: “Đây là mộ của ai đấy mẹ?”

Kỹ nữ vuốt đầu con: “Đây là mộ của ân nhân nhà mình”

Chàng trai nhìn quanh vùng hoa đào cảm khái: “Đây là mộ nghĩa phụ của con. Hôm nay là ngày giỗ của nghĩa phụ”.

Chén bồ đào mỹ tửu rót xuống đất. Hương rượu nồng nàn trong sương sớm. Mấy mảnh giấy vàng mã bừng cháy trong tiết trời mùa xuân.

Xung quanh là một vùng hoa đào hồng rực, hồng rực đến bàng hoàng, hồng rực như hàng ngàn ngọn nến cháy lung linh…

Hà Nội, 17/11/2011

Nguồn: VN Trẻ

LỜI BÌNH TRUYỆN NGẮN TIẾNG ĐÀN ĐÊM XUÂN KỶ DẬU CỦA HOÀNG TÙNG 4.2.2012

Lê Hoài Lương

Truyện ngắn tạo sự tò mò ngay từ lời dẫn. Rằng đây là nguồn gốc của hai câu Kiều nổi tiếng của Đại thi hào Nguyễn Du. Và nền truyện gắn với mùa xuân Kỷ Dậu vua Quang Trung đại phá quân Thanh xâm lược là một trang sử vang động, oanh liệt của dân tộc. Những chi tiết “có thật” này là cái nền độc đáo cho một câu chuyện thấm đẫm chất bi tráng và nhuốm màu sắc hiệp nghĩa thời loạn, chút trữ tình anh hùng với mỹ nhân và sự yên bình của nối tiếp cuộc sống ở Thăng Long. Một nối tiếp đẹp bằng hình ảnh gia đình nhỏ bên nấm cỏ vị ân nhân năm xưa. Nối tiếp đẹp vì nền truyện trước đó luôn là cảnh chiếc xe ngựa lầm lũi ngày đầu xuân rời đi khỏi kinh thành loạn lạc.



Và tiếng đàn đã xuất hiện sau chặng dài “gió thảm mưa sầu” những người trai Đại Việt chứng kiến cô kỹ nữ số một Thăng Long bị giặc làm nhục, chàng nho sinh bị đánh- giết, và cuối cùng là viên gia nô- cận vệ chúa Trịnh xả thân vì nghĩa, cứu những bạn đồng hành. Tiếng đàn cô kỹ nữ đàn cho người gia nô nghe trước khi chết, tiếng đàn trên đồi vang lên trong tiếng quân reo súng nổ vang trời của Tây Sơn tiêu diệt đồn Ngọc Hồi.

Những nhân vật nho sinh, kỹ nữ, viên gia nô, gã cai đội giặc… là sáng tạo trên nền chuyện lịch sử. Hai câu mô tả tiếng đàn Kiều đã được giải mã bằng lịch sử và văn chương. Xưa nay cho thấy nhiều cứ liệu lịch sử lại rất đáng tin cậy từ văn chương hơn những trang chính sử.

Truyện ngắn này không minh họa lịch sử, mà viết sử theo cách của văn chương. Sống động, hấp dẫn và hay như lời bình giỏi về hai câu Kiều.

Người bình Lê Hoài Lương

Thứ Ba, 3 tháng 4, 2012

Bình luận kiếm hiệp: Bình luận Bích Huyết Kiếm


ĐỌC LẠI BÍCH HUYẾT KIẾM

Bích Huyết Kiếm không phải là tác phẩm xuất sắc của nhà văn Kim Dung. Tuy nhiên, tác phẩm đã kết hợp giữa “lịch sử giang sơn” và “dã sử giang hồ”, một hướng đi được Kim Dung thể hiện một cách xuyên suốt trong hầu hết các tác phẩm sau này của ông. Xét về kết cấu truyện, kỹ thuật viết và những chủ đề tư tưởng được tác giả khai thác thì Bích Huyết Kiếm rất đáng được phân tích và bình luận…

1.Giang sơn và giang hồ

Người Trung Quốc thích tổng kết lịch sử thành những quy luật. Chẳng vậy mà kiệt tác “Tam Quốc Diễn Nghĩa” của La Quán Trung bắt đầu bằng một quy luật ngàn đời: “Thế lớn trong thiên hạ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan”. Bộ tiểu thuyết Bích Huyết Kiếm của nhà văn Kim Dung cũng mang trong mình những quy luật lịch sử như vậy.
Kim Dung vốn là người đa tài. Ngoài khả năng sáng tác xuất chúng, ông còn là một nhà báo sắc sảo, một nhà khảo cứu lịch sử được kính trọng. Ông am hiểu sâu sắc văn hóa lịch sử Trung Quốc. Trong những tác phẩm của mình, Kim Dung đề cập nhiều đến thời kỳ người Mãn Châu xâm chiếm và đô hộ Trung Quốc. Trong mười bốn bộ tiểu thuyết ông viết, có tới năm bộ ông lấy bối cảnh Thanh triều. Ngoài ra, ông còn là tác giả của bộ khảo cứu mang tên Viên Sùng Hoán bình truyện. Bích Huyết Kiếm cũng là một tác phẩm lấy bối cảnh khi triều Minh bắt đầu mạt vận và người Mãn Châu bắt đầu đặt nền móng xây dựng nên Thanh triều.
Do có một thời gian dài làm báo, Kim Dung tiếp xúc nhiều quan điểm và tư tưởng của những triết gia phương Tây. Trong số đó, có lẽ Kim Dung ít nhiều đồng cảm với nhà chính trị - nhà văn Sir John Dalberg-Acton. Bởi một trong những chủ đề xuyên suốt trong những tác phẩm của ông luôn là sự hủ bại của quyền lực. Bích Huyết Kiếm cũng không phải là ngoại lệ. Xét riêng về góc độ lịch sử, bộ tiểu thuyết gần như phản ánh câu nói nổi tiếng của Sir.John Dalberg-Acton: Power tends to corrupt, and absolute power corrupts absolutely – Quyền lực dẫn đến tha hóa và quyền lực tuyệt đối dẫn đến tha hóa tuyệt đối.
Bích Huyết Kiếm là tác phẩm được tác giả Kim Dung viết theo kiểu đăng sê-ri dài kỳ - feuilleton trên Hong Kong thương báo trong suốt cả năm 1956. Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết là Viên Thừa Chí, con trai của vị đại tướng chống quân Thanh trong thời Minh mạt là Viên Sùng Hoán. Thái tử quân Mãn Thanh là Hoàng Thái Cực nhiều lần tiến đánh vào Trung Nguyên nhưng đều bị Viên Sùng Hoán chặn đứng. Họ Hoàng mới dùng mưu ly gián khiến vua Sùng Trinh nghi kỵ họ Viên. Vốn bản chất đa nghi và nhỏ nhen, Sùng Trinh trúng mưu và ra lệnh xử tử Viên Sùng Hoán. Trong khi đó, dưới sự cai trị hà khắc và ngu xuẩn của Sùng Trinh, người dân đói khổ, giặc cướp nổi lên khắp nơi, trong đó đáng kể nhất là cuộc khởi nghĩa nông dân của Sấm Vương Lý Tự Thành.
Viên Thừa Chí được thủ hạ của cha cứu sống và nuôi dưỡng bởi những cao thủ bậc nhất. Chàng lớn lên với mối thù mất cha, đồng thời gánh vác trên vai trọng trách giúp đỡ Sấm Vương Lý Tự Thành lật đổ Minh triều. Bước đường lưu lạc khiến chàng học được bản lĩnh võ công tuyệt luân của Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi, đồng thời rơi vào mối tình tay ba với cô gái xinh đẹp Ôn Thanh Thanh và con gái yêu của vua Sùng Trinh là công chúa A Cửu… Từ đó, nhà văn Kim Dung vẽ nên một câu chuyện sống động, đan lát vào đó khung cảnh mỹ lệ của thế giới giang hồ dựa trên nền bức tường lịch sử thời Minh mạt. Kim Dung cũng khéo léo đưa vào những trang viết của mình hàng loạt những nhân vật lịch sử dưới một góc nhìn sắc sảo.

2.Lịch sử dưới một lăng kính khác

Trong số những nhân vật lịch sử xuất hiện trong Bích Huyết Kiếm, đáng kể nhất là đại tướng của nhà Minh Viên Sùng Hoán, Hoàng đế Sùng Trinh, lãnh tụ khởi nghĩa nông dân Sấm Vương Lý Tự Thành và Thủ lĩnh của người Mãn Châu Hoàng Thái Cực. Trong số đó, đặc sắc nhất phải nói đến hình tượng lịch sử nhân vật Lý Tự Thành.
Trong hai phần ba cuốn tiểu thuyết, ta đều thấy Lý Tự Thành đại diện cho chính nghĩa, cho trăm họ bách tính. Và phía bên kia chiến tuyến, vị Hoàng đế Minh mạt Sùng Trinh hiện ra với một bức tranh hoàn toàn méo mó, không xứng đáng với ngôi ngũ cửu, là nhân vật phản diện điển hình.
Trước tiên, chỉ vì tin lời xiểm nịnh của gian thần, Sùng Trinh vẫn thẳng tay áp dụng hình phạt tàn khốc đối với đại tướng Viên Sùng Hoán. Thực tế lịch sử cho thấy tuy hết lòng bảo vệ người Hán nhưng Viên Sùng Hoán bị chính những người này căm hận vì nghĩ rằng ông tiếp tay cho người Mãn Châu. Khi chịu án lăng trì, người dân tranh nhau ăn tươi nuốt sống từng miếng thịt của ông để trả hận!?! Nhà văn Lỗ Tấn từng viết: “Lịch sử Trung Quốc là lịch sử ăn thịt người” kể ra cũng không ngoa. Sau này, Sùng Trinh còn thể hiện sự tàn bạo của mình bằng hành động vung đao định chém chết con gái ruột của mình là Trường Bình Công chúa A Cửu cho thấy đây là một kẻ tàn nhẫn đến cùng cực.
Ở góc nhìn trái ngược, Sấm Vương Lý Tự Thành hiện lên như một vị lãnh tụ đầy quả cảm. Trong lịch sử, Lý Tự Thành là một nhân vật rất nổi tiếng, gắn với phong trào khởi nghĩa nông dân, được các nhà lịch sử Trung Quốc dành cho nhiều ưu ái. Ở Bích Huyết Kiếm, Lý Tự Thành hiện ra với một hình ảnh đẹp lồng lộng sau khi ông chiếm thành Bắc Kinh. Giữa biển người hò reo cổ vũ, Sấm Vương tuyên bố sang sảng: “Sau khi vào thành, kẻ nào giết hại trăm họ, gian dâm, cướp bóc, lập tức chém đầu, quyết không dung tha!” Lời nói khiến trăm họ khấp khởi vui mừng. Ai cũng nghĩ rằng lịch sử đã sang một trang mới với một đấn minh quân. Ai ngờ, Lý Tự Thành dưới con mắt Kim Dung đã trở thành biểu tượng của sự tha hóa quyền lực. Ngay khi chạm vào quyền lực tuyệt đối, họ Lý đã trở nên tha hóa tuyệt đối, tha hóa không kém gì kẻ vừa bị chính ông lật đổ.
Sau khi vào thành, đám quân hỗn loạn của Sấm Vương không trò bỉ ổi nào không làm, cưỡng bức gái nhà lành, vu cáo cho người lương thiện, cướp bóc của dân chúng. Bản thân Lý Tự Thành khi bước lên ngai vàng lập tức mải mê ăn chơi phè phỡn, rượu ngon gái đẹp suốt đêm ngày. Sự thực là vị Sấm Vương kia khi lên ngôi đã lập tức coi thiên hạ là của mình và cho mình quyền lực tuyệt đối: “Đại vương khi đang đánh chiếm giang sơn thì là dân, bây giờ lấy được thiên hạ, ngồi trên ngai vàng rồi, đã thành chân mệnh thiên tử, đâu còn là thảo dân nữa?” Lịch sử đã cho thấy, quyền lực tuyệt đối luôn gắn với sự tha hóa tuyệt đối. Lý Tự Thành cũng không nằm ngoài quy luật lịch sử nghiệt ngã đó. Kết quả là Lý Tự Thành nghe theo lời xúi bẩy, giết hết nhân tài trong nghĩa quân và bị quân Mãn Châu đánh bại. Xét cho cùng, Lý Tự Thành cũng chẳng hơn gì vị vua u tối Sùng Trinh. Đó là sự trớ trêu của lịch sử. Đôi khi lịch sử khoác cho một vài cá nhân tấm áo rộng quá khổ. Trong trường hợp này, nhiệm vụ tạo lập nên một vương triều mới với giấc mơ cơm no áo ấm cho người dân là một tấm áo quá khổ đối với một con người như Lý Tự Thành.

3.Kỹ thuật “người vắng mặt”

Xét về kỹ thuật trong Bích Huyết Kiếm, có thể thấy Kim Dung đã liên tục sử dụng kỹ thuật viết “người vắng mặt”. Đây là cũng là một kỹ thuật viết được tác giả sử dụng lại nhiều lần trong các tác phẩm khác của ông.
Kỹ thuật “người vắng mặt” được khá nhiều nhà văn sử dụng, trong đó đáng kể nhất phải là nữ văn sĩ Charlotte Brontë trong tác phẩm văn học kinh điển "Jane Eyre". Những người đọc truyện "Jane Eyre" hết sức tò mò về nhân vật Rochester, ông chủ lâu đài Thornfield. Sở dĩ người đọc thích thú với nhân vật này bởi Rochester không xuất hiện trực tiếp mà chỉ hiện lên một cách gián tiếp qua lời kể của những nhân vật khác nhau. Điều này khiến Rochester như hiện ra từ những góc độ khác nhau, tạo ra những ấn tượng khác nhau trước khi thực sự xuất hiện.
Trong lời “Bạt” của bộ tiểu thuyết, Kim Dung đã viết: “Nhân vật chính của Bích Huyết Kiếm thực ra là Viên Sùng Hoán, thứ đến Kim Xà Lang Quân, là hai nhân vật không chính thức xuất hiện trong tác phẩm”. Trong Bích Huyết Kiếm, có ba nhân vật được Kim Dung sử dụng bút pháp “người vắng mặt”. Nhân vật đầu tiên là đại tướng Viên Sùng Hoán qua lời kể của những cận vệ trung thành, vẽ nên hình ảnh một vị tướng quân tài ba lỗi lạc, oai hùng trên chiến trường, hết lòng với binh lính, dốc sức tận trung báo quốc. Nhưng cuối cùng, Viên Sùng Hoán bị chính vua Sùng Trinh ra lệnh chém đầu, bị chính những người dân được ông bảo vệ bấy lâu phỉ nhổ vì “tội phản quốc”. Nhân vật thứ hai là Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi. Với Hạ Tuyết Nghi, kỹ thuật “người vắng mặt” được Kim Dung đẩy cao hơn một bậc. Nếu như Viên Sùng Hoán được hiện ra với một hình ảnh khá nhất quán thì Hạ Tuyết Nghi qua hồi ức của mỗi người có thể đi từ thái cực “cực thiện” sang “cực ác”. Bang chủ Tiêu Công Lễ cho rằng họ Hạ là một trang đại hiệp, cứu khốn phò nguy, chủ trì công chính. Gia đình nhà họ Ôn thì kể rằng họ Hạ là một tên tham dâm hiếu sắc, giết người tàn bạo. Cuối cùng, không ai biết chàng là kẻ tà hay người chính. Hoặc giả đúng với tên hiệu, chàng mang trong mình cả phong thái tà ác của “Kim Xà” và lãng tử của “Lang Quân”. Nhân vật thứ ba là Sấm Vương Lý Tự Thành. Với Sấm Vương, tác giả để cho người đọc tưởng tượng ra nhân vật này qua sự ủng hộ của những bậc hào kiệt trong giới võ lâm, qua những hành động hiệp nghĩa của những nhân vật trong đội quân khởi nghĩa và những bài ca dân gian ca ngợi ân đức Sấm Vương. Để rồi cuối cùng, khi gặp mặt thực tế, nhà văn có một cuộc lột trần bản chất Lý Tự Thành một cách ngoạn mục.

Nhìn nhận một cách khách quan, khó có thể coi Bích Huyết Kiếm là một tác phẩm văn học võ hiệp xuất sắc. Bản thân so với những tác phẩm sau này của nhà văn Kim Dung, Bích Huyết Kiếm còn có nhiều điểm thua kém. Dẫu sao, đây là tác phẩm trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của nhà văn. Nhưng qua một kết cấu truyện chặt chẽ, sự kết hợp giữa lịch sử và võ hiệp một cách nhuần nhuyễn, đặc biệt là tư tưởng mạnh dạn, Kim Dung đã thể hiện được những nét tài hoa của mình, báo hiệu tương lai của một Minh chủ võ lâm trong địa hạt văn học võ hiệp.
HOÀNG TÙNG